VEPR: Không nên ‘hy sinh’ ngoại tệ, nhập khẩu vàng để bình ổn giá
Các chuyên gia đồng tình với quan điểm các biện pháp hành chính, như thanh tra thị trường, yêu cầu sử dụng hóa đơn điện tử, hay điều tra hành vi thao túng giá…Các biện pháp này có thể hiệu quả tức thì, thay vì “hy sinh” ngoại tệ nhập khẩu vàng ồ ạt để bình ổn giá.
Các chuyên gia trao đổi tại Tọa đàm “Đối thoại chính sách: Ổn định thị trường vàng, giữ vững vĩ mô, tạo đà phục hồi trong bối cảnh thế giới bất định” do Viện VEPR của Trường Đại học Kinh tế , Đại học Quốc Gia tổ chức ngày 17/5, tại Hà Nội – Ảnh: VGP/HT
|
Đây là ý kiến của các chuyên gia Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) và Think Future tại Tọa đàm “Đối thoại chính sách: Ổn định thị trường vàng, giữ vững vĩ mô, tạo đà phục hồi trong bối cảnh thế giới bất định” do Viện VEPR của trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc Gia tổ chức ngày 17/5, tại Hà Nội.
Giá vàng không hẳn do cung cầu
Các chuyên gia VEPR và Think Future thống kê phân tích lại “lịch sử” biến động để thấy rằng không cần nhập khẩu, không cần phá độc quyền thương hiệu vàng miếng SJC, chênh lệch giá vàng vẫn có những giai đoạn dài được kiểm soát, giá vàng trong nước và thế giới đồng pha gần như tuyệt đối.
Giai đoạn hậu đấu thầu vàng 2013 đến 8/2020, chênh lệch giá vàng giảm dần về 0.
Giai đoạn 2014-2015, sau khi bán 74 tấn vàng, chênh lệch giá vàng vẫn còn ở mức cao, bằng 10%-20% giá vàng thế giới. Giai đoạn này giá vàng thế giới giảm 12% nhưng giá trong nước chỉ giảm 5.7%. Vậy là dù đã phải nhập một lượng vàng rất lớn, mục tiêu bình ổn và giảm chênh lệch giá vàng cũng khó đạt được trong một sớm một chiều.
Điều này khẳng định sự cần thiết phải tính đến các phương án khác để giảm chênh lệch giá vàng chứ không đơn giản là hy sinh dự trữ để mua vàng về bán. Giai đoạn 2016-2019: thời kỳ giá vàng dần đi vào ổn định khi giá vàng thế giới tăng nhưng giá trong nước gần như đi ngang, chênh lệch giá vàng được dần kéo về bằng 0. Thời gian này kinh tế Việt nam cũng đã qua giai đoạn khó khăn, bước vào chu kỳ ổn định và tăng trưởng cao. –
Giai đoạn 2019-2020, thử thách sóng vàng thế giới lần 1. Giá vàng thế giới tăng mạnh 55% và giá vàng trong nước tăng theo tương ứng, chênh lệch giá vàng vẫn không đáng kể. Đây là bằng chứng để phủ định lập luận cho rằng vì có sóng vàng thế giới (như đang xảy ra trong năm 2024) nên người dân tăng nhu cầu mua vàng và kéo tăng chênh lệch.
Khi xem chênh lệch giá vàng, chúng ta nên dùng số tương đối (%) thay vì số tuyệt đối (triệu đồng). Cùng mức chênh trên 19 triệu đồng/lượng, nhưng hiện tại chỉ bằng 26% giá vàng thế giới, thấp hơn 2 đỉnh chênh lệch trước là 42% và 33%.
Từ tháng 9/2020 đến tháng 8/2022, giá vàng thế giới giảm 10%, nhưng giá vàng trong 27 nước không giảm theo, trái lại tăng 10%. Đây là giai đoạn lãi suất thấp khiến chứng khoán, bất động sản tăng nóng và thu hút dòng tiền rất lớn từ giới đầu tư. Đó là thời gian “người người nhà nhà đi mở tài khoản chứng khoán và đi buôn đất” chứ không phải đi mua vàng. Ngược lại, giới đầu tư rất có thể đã bán vàng để dồn tiền vào chứng khoán và BĐS. Vậy là không phải do sóng vàng thế giới, cũng không phải do nhu cầu mua vàng mà chênh lệch giá vàng vẫn tăng…
Giai đoạn tháng 8/2023 đến hiện tại, giá vàng trong nước và thế giới cùng có xu hướng tăng, tuy nhiên nếu quan sát kỹ thì có 2 giai đoạn giá vàng trong nước tăng trong khi giá vàng thế giới đi ngang, nới rộng chênh lệch giá vàng lên 32% và 26%. Lãi suất thấp, kênh chứng khoán và BĐS đều trầm lắng, nương theo giá vàng thế giới thì vàng trong nước rất dễ tạo sóng.
Do đó, các chuyên gia phân tích: Giá vàng trong nước và chênh lệch giá vàng không hoàn toàn phản ánh cân đối cung và cầu, việc “trị” chênh lệch giá vàng không thể chỉ dựa vào việc nhập khẩu vàng ồ ạt để bình ổn giá. Hành động này không chỉ đi chệch mục tiêu mà còn lãng phí các nguồn lực dự trữ không cần thiết. Trong tình hình này, các biện pháp hành chính trở nên đặc biệt quan trọng để đảm bảo sự minh bạch và ngăn chặn thao túng giá. Thanh tra thị trường vàng, yêu cầu sử dụng hóa đơn, điều tra hành vi thao túng… sẽ không tốn dự trữ ngoại hối mà lại có thể mang tới hiệu quả cao tức thì. Ngoài việc sử dụng các biện pháp hành chính, công cụ tiền tệ như lãi suất cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn các loại bong bóng tài sản, bao gồm cả vàng.
TS Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ quốc gia đề xuất nên tận dụng nhiều hơn công cụ thuế phí tác động vào cung cầu vàng.
Bối cảnh này, các chuyên gia từ VEPR và Think Future Consultancy đồng tình với quan điểm các biện pháp hành chính, như thanh tra thị trường, yêu cầu sử dụng hóa đơn điện tử, hay điều tra hành vi thao túng giá…. Các biện pháp đó không tốn dự trữ ngoại hối nhưng có thể mang tới hiệu quả cao tức thì. Ngoài ra, công cụ tiền tệ, như lãi suất, cũng giúp ngăn các loại bong bóng tài sản, gồm vàng. Thực tế, các biện pháp hành chính như hóa đơn điện tử được Chính phủ đưa ra nhiều lần, trong bối cảnh các giao dịch mua bán kim loại quý thường nhỏ lẻ, không đủ hóa đơn, chứng từ, thiếu minh bạch.
Mới đây, lãnh đạo Chính phủ đã yêu cầu đến ngày 15/6, doanh nghiệp không thực hiện hóa đơn điện tử kết nối với cơ quan thuế sẽ bị rút giấy phép, NHNN cần thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm các sai phạm trên thị trường này.
Về lý thuyết, nếu cho nhập vàng nhiều sẽ gây biến động tỉ giá, tác động đến ổn định kinh tế vĩ mô trên diện rộng hơn, trong khi đó giữ vững ổn định vĩ mô mới là mục tiêu lớn nhất.
Các nhóm giải pháp phục hồi tăng trưởng
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình kinh tế thế giới Quý I và 4 tháng đầu năm 2024, TS Nguyễn Quôc Việt, Phó Viện trưởng VEPR phân tích: Nền kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức, trong đó, tốc độ tăng trưởng chậm lại so với năm 2023.
Về kinh tế Việt Nam 4 tháng đầu năm 2024, đại diện VEPR phân tích các điểm nổi bật, trong đó nhận định, nền kinh tế đang chứng kiến sự phục hồi của xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài. Đáng chú ý là Việt Nam duy trì thặng dư thương mại 8 năm liên tiếp, với kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 238.88 tỷ USD, tăng 15.2% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, VEPR cũng cho rằng, vẫn còn những yếu tố khiến sự phục hồi kinh tế năm 2024 của Việt Nam chưa thực sự bền vững, nhất là khi vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn.
Để thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng kinh tế, các chuyên gia khuyến nghị cần thực hiện các nhóm giải pháp chính.
Thứ nhất, tăng cường giải ngân đầu tư công đảm bảo đúng tiến độ và tập trung, đặc biệt là các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng, để tạo ra một nền tảng vững chắc và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ hai, ưu tiên các chính sách và cải cách nhằm tháo gỡ khó khăn, giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp, tạo dựng niềm tin vào môi trường đầu tư để khuyến khích doanh nghiệp quay lại thị trường và mở rộng quy mô. Các chính sách hỗ trợ đặc biệt cho các doanh nghiệp cần cụ thể và khả thi (như chính sách hỗ trợ xuất khẩu khá thành công). Về lâu về dài, các chính sách tổng thể nhằm nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp và sức cạnh tranh của nền kinh tế là một điều kiện tiên quyết để thúc đẩy và nâng tầm chất lượng tăng tưởng của Việt nam trong giai đoạn tiếp theo.
Thứ ba, do động lực tiêu dùng nội địa còn yếu, cần tiếp tục giảm thuế VAT trong năm 2024 cân nhắc mở rộng thêm đối tượng áp dụng. Có thêm chương trình và chính sách kích cầu tiêu dùng cụ thể, và cần đi nhập, tham gia sâu hơn nữa vào nền kinh tế toàn cầu, gia tăng giá trị nội địa trong các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu từ đó nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh, mức độ đóng góp của xuất khẩu trong nền kinh tế.
Thứ tư, bảo đảm hài hoà, hiệu quả trong mục tiêu tăng trưởng tín dụng hỗ trợ sản xuất – kinh doanh cho doanh nghiệp nói riêng, thúc đẩy tiêu dùng và phục hồi tăng trưởng nói chung đồng thời vẫn phải đảm bảo an toàn tín dụng của hệ thống tài chính.
Thúc đẩy đa dạng hoá các kênh dẫn vốn và đầu tư ngoài tín dụng ngân hàng (nâng cao hiệu quả và tính minh bạch thị trường cổ phiếu, trái phiếu, các kênh dẫn vốn khác gắn với tín dụng xanh, chuyển dịch năng lượng công bằng, cho thuê tài chính…).
Thứ năm, nâng cao mức độ độc lập, tự chủ của nền kinh tế và của các doanh nghiệp Việt nam, đồng thời phát huy hiệu quả các hiệp định tự do và khả năng hội nhập, tham gia sâu hơn nữa vào nền kinh tế toàn cầu, gia tăng giá trị nội địa trong các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu từ đó nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh, mức độ đóng góp của xuất khẩu trong nền kinh tế.
Thứ sáu, hoàn thiện chiến lược chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy các yếu tố tạo giá trị gia tăng thực của nền kinh tế số, như công nghệ phần mềm, kinh doanh nền tảng, thương mại điện tử để tạo ra động lực đổi mới sáng tạo, vừa chuyển dịch mô hình tăng trưởng theo hướng năng suất và hiệu quả lao động, đồng thời đa dạng hoá kênh dẫn vốn cho nền kinh tế.
Nhật Quang